hiện tại, để làm cho bệnh nhân hợp tác hài hòa với mình, người hành nghề y được đào tạo và khuyến cáo nên xem bệnh nhân chính là một thành viên hăng hái trong đội ngũ chăm nom sức khỏe. Người bệnh cần được đối như “một cá nhân được tôn trọng” và người bác sĩ có nhiệm vụ làm chấp nhận họ bằng tình cảm tâm thành, có mối quan hệ tốt với bệnh nhân, cung cách khám chữa bệnh đúng mực, nói năng nhẹ nhõm, thân tình, giảng giải rõ ràng, cặn kẽ. Đặc biệt, người bệnh rất cần được thông tin đầy đủ về việc coi sóc sức khỏe của mình. Người bệnh có quyền nói lên những thắc mắc và đặt ra câu hỏi liên can đến việc chăm chút sức khỏe. Người bệnh có quyền đề nghị bác sĩ giảng giải kỹ về kế hoạch điều trị, có quyền được giải thích vì sao phác đồ điều trị dùng thuốc (kể cả xét nghiệm hoặc phẫu thuật nếu có) lại cấp thiết và hữu ích đối với họ. Để chính họ, có quyền từ khước hay đồng ý với phương cách chữa trị của thầy thuốc. Đó có thể xem là “đặc quyền” của người bệnh.
Làm cho bệnh nhân cộng tác hài hòa với người hành nghề y, mô tả bằng các “đặc quyền” của bệnh nhân chỉ được công nhận từ những năm 1970 của thế kỷ 20; đặc biệt, nhờ 3 vụ kiện cáo y tế xem ra khá ly kỳ đã xảy ra. Ba vụ kiện này xảy ra ở Hoa Kỳ được một bác sĩ Việt Nam thu thập và đăng trên mạng. Xin phép được trích đăng sau đây:
Vụ án thứ 1: can thiệp vào thân thể bệnh nhân dù với mục đích tốt, cũng bị xem là bạo hành, nếu không được đồng ý của bệnh nhân đó
Một bệnh nhân có khối u ở bụng. Người này đã đồng ý để được gây mê và mở ổ bụng để chẩn đoán xem khối u là ác tính hay lành tính. Khi công nhận khối u là ác tính, ngay trong ca mổ, bác sĩ đã tự tiện cắt bỏ đi mà không phê duyệt trước đó, hỏi quan điểm của bệnh nhân.
Đây là chuyện đã xảy ra tại một bệnh viện ở New York vào năm 1914 mà sau này thường được nhắc đến với tên “vụ án Schloendorff”. bác sĩ này có thể bị kiện không? bác sĩ đã bị kiện thật. Phán quyết của tòa án cho vụ án này đã được trích dẫn trong các tài liệu về đạo đức y khoa:
tuốt tuột người trưởng thành với thần kinh thông thường có quyền quyết định những gì nên được thực hành trên thân của mình. Một bác sĩ ngoại khoa mà giải phẫu không có sự đồng ý của bệnh nhân được xem như đã bạo hành bệnh nhân và phải chịu bổn phận đền bù thiệt hại”.
Người thầy thuốc có nhiệm vụ làm hài lòng bệnh nhân bằng tình cảm thành tâm
Như vậy, mọi hành vi y tế xâm hại đến thân bệnh nhân, dù với mục đích tốt, đều bị xem là một dạng bạo hành nếu không nhận được sự đồng ý của họ!
Sự kiện trên cũng đã khai mào cho nhiều tranh biện liên quan đến quyền quyết định của bệnh nhân, giúp hình thành nên khái niệm mới là “đồng ý”: thầy thuốc phải có bổn phận công nhận có sự “đồng ý” của bệnh nhân trước khi can thiệp vào thân để chữa trị cho họ.
Vụ án thứ 2: đồng ý của bệnh nhân phải kèm với điều kiện được giảng giải
Một bệnh nhân 55 tuổi được thầy thuốc khám và nghi ngờ bị thuyên tắc ở động mạch chủ. Đồng ý chụp ảnh để xác định vị trí thuyên tắc, bệnh nhân được tiêm sodium urokon (một loại thuốc là phẩm màu) vào động mạch chủ qua vùng dây lưng. Tuy nhiên sáng hôm sau thức dậy, bệnh nhân không thể nhấc nổi chân vì bị liệt cả hai chi dưới!
Vụ việc xảy ra vào năm 1972. Bệnh nhân có tên là Martin Salgo đã đâm đơn kiện các bác sĩ ở bệnh viện Đại học Stanford (Hoa Kỳ) vì việc không giảng giải và cảnh báo rõ ràng về nguy cơ bị liệt do thủ thuật tiêm thuốc vào thân thể. Tòa án đã đứng về phía bệnh nhân với lập luận rằng đúng ra các thầy thuốc đã phải cung cấp và giảng giải tuốt luốt thông báo cần thiết để giúp bệnh nhân đưa ra quyết định. tức thị đồng ý phải kèm điều kiện được giải thích rõ ràng.
Thật ra, từ năm 1957 là năm mà mức “ Informed consent” (“Đồng ý sau khi được giải thích”) được dùng lần trước nhất trong lịch sử y học. Khái niệm này đã phải mất 15 năm (1957-1972) để dần được phổ biến và hài lòng sau nhiều phiên tòa về y tế khác. Như trong một phiên tòa năm 1960 tại Hoa Kỳ có đề cập cụ thể:
bác sĩ phải nắm thuyết mình cho bệnh nhân, bằng tiếng nói dễ hiểu, về đặc điểm của bệnh tật, nội dung điều trị, khả năng thành công, những tuyển lựa thay thế cũng như những biến chứng có thể xảy ra và cách ứng phó”.
Vụ án thứ 3: giải thích cho bệnh nhân, phải theo cách nói mà bệnh nhân hiểu được
Một bệnh nhân bị đau lưng nặng, được chẩn đoán là do vỡ đĩa đệm giữa hai đốt sống thắt lưng và cần giải phẫu. Tuy nhiên thầy thuốc không nói với bệnh nhân thông tin chi tiết về phương pháp mổ. bác sĩ chỉ trấn an mẹ của bệnh nhân rằng mặc dù là ca phức tạp, cách xử lý không khó khăn mấy so với các trường hợp mổ trước. Trong quá trình hồi phục sau mổ, bệnh nhân còn bị trượt khỏi giường vì không có thanh chắn giường hợp. Sau đó, bệnh nhân gần như hoàn toàn bị bại liệt.
Bệnh nhân đã kiện thầy thuốc (và cả bệnh viện) về việc không giảng giải cho bệnh nhân những nguy cơ can hệ trước khi mổ, cũng như có những tắc trách trong quá trình theo dõi hậu phẫu. Không hề có giấy má nào chứng tỏ việc cung cấp thông tin của thầy thuốc!
Vụ án này được gọi là “Canterbury v. Spence” và xét xử vào năm 1972 ở Hoa Kỳ dấy lên nhiều tranh cãi sôi nổi sau đó và góp phần đổi thay chuẩn mực về đạo đức y tế.
Phía bệnh viện thì biện hộ rằng việc bị liệt cũng có thể xảy ra với xác suất là 1%, ngay cả khi bệnh nhân không bị té sau mổ. Hơn nữa, bác sĩ vì lo ngại việc truyền đạt các nguy cơ trong điều trị sẽ làm bệnh nhân hoang mang lo âu, gây biến động tâm lý ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị nên không giảng giải cho bệnh nhân.
Lời lẽ giảng giải phải theo tiêu chuẩn mà một người thường nhật vẫn có thể hiểu được
Phán quyết của tòa đưa ra với đại ý:
Trong trường hợp này, bệnh nhân là người giữ quyền quyết định đối với thân của mình, là người chọn lựa phương thức điều trị chứ không thể là ai khác. Vì thầy thuốc có bổn phận giúp đỡ bệnh nhân lựa chọn phương cách điều trị, lời lẽ giảng giải thuyết minh chẳng thể theo tiêu chuẩn “chuyên môn” của thầy thuốc mà phải theo tiêu chuẩn mà một người bình thường vẫn có thể hiểu được! Sự đồng ý chọn lọc phương thức điều trị phải biểu thị bằng văn bản”.
Chính phán quyết này đã làm nên bước ngoặt lịch sử, vì tiêu chuẩn giải thích theo kiểu “chuyên môn” của bác sĩ mà bệnh nhân chảng hiểu gì, đang thống trị vào thời điểm đó!
Tóm lại, những đổi thay trong thực hành y học, đặc biệt khái niệm mới liên hệ đến đạo đức nghề y (như “ đồng ý của bệnh nhân” , “ đồng ý phải kèm được giải thích rõ ràng”…), đã hình thành và tiến hóa trong vận động chung của xã hội. Những thay đổi này dần dần được chuyển đổi thành ngôn ngữ của luật pháp và thay đổi cách hành xử của con người tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác. Những đổi thay, những khái niệm mới không tự nhiên sinh ra hay được áp đặt một cách miễn cưỡng. Giới chuyên môn ở Hoa Kỳ cho rằng, đó là nhờ phong trào nhân quyền dưới sự dẫn dắt của Martin Luther King dấy lên vào những năm 1960. Họ còn cho rằng, những vụ án can hệ tới sự cố y khoa hiện thời không nên dừng lại ở việc trị tội một đôi cá nhân “cho xong chuyện”, mà phải xử lý được lỗi hệ thống để đổi thay cách làm việc, để cách hành xử y tế mang lại ích trước hết cho bệnh nhân.
PGS.TS. NGUYỄN HỮU ĐỨC
Đăng nhận xét