Kỹ sư máy tính Nguyễn nổi danh đã đọc bài của PGS Bùi Mạnh Hùng, Chủ tịch Hội đồng quốc gia giám định cuốn sách Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục và muốn có vài luận bàn.
Sách Công nghệ giáo dục phải đặt trong bối cảnh ra đời - năm 1978
đầu tiên là về tên cuốn sách. Từ “công nghệ” trong “công nghệ giáo dục” không nên được hiểu theo nghĩa phổ quát, gắn liền kỷ nguyên số như hiện, mà nên đặt trong bối cảnh sách ra đời năm 1978. Đối với thầy giáo, hai loại kiến thức họ cần là lý luận chuyên môn và kỹ năng thực tế. Khi giang sơn mới thống nhất, giáo dục còn chập chững, lực lượng thầy giáo khi đó liệu có được trang bị phương pháp sư phạm tiên tiến như bây giờ?
Và giả dụ lý luận chuyên môn chưa đầy đủ thì cách hiệu quả nhất chắc chắn là tạo ra một quy trình giảng dạy, đầy đủ các bước, hiệu quả, để nghiêm phụ có lý luận chuyên môn thường ngày cũng có thể trở nên người dạy tốt nếu tuân thủ theo các bước đó. Từ “công nghệ” có nhẽ vốn có ý tức thị một quy trình với các bước dạy được thiết kế tường tận, có thể dễ dàng dùng, đào tạo chóng vánh.
Việc học sinh có cảm giác đơn điệu, nhàm chán hay không khi học theo một phương pháp lặp đi lặp lại có thể được khảo sát dễ dàng. Tuy nhiên, ngay cả khi phương pháp có lặp lại thì nội dung bài học đã mới (âm mới, chữ mới). Trong khuôn khổ học đánh vần, học đọc của chương trình lớp 1, “bắt chước” và “lặp lại” có lẽ là điều cấp thiết. tát, cách chúng ta hiểu về “nhàm” chưa chắc giống với cảm nhận của các em nhỏ tuổi.
Có những bài hát, có những trò chơi, có những hoạt động học tập được tía dùng đi dùng lại nhiều lần, nhưng học trò vẫn náo nức tham dự. nên, tôi thắc mắc liệu Hội đồng thẩm định đã khảo sát mặt xúc cảm của các em khi học chương trình này chưa? Tôi được biết, GS Hồ Ngọc Đại từng đứng trước cổng trường mỗi ngày, hỏi thăm từng em xem bữa nay đi học có vui không.
Sách Công nghệ giáo dục dạy học sinh tách lời ra từng tiếng và biểu đạt bằng các ô vuông. |
Trong lĩnh vực dạy ngoại ngữ bây giờ, một khuynh hướng dùng khá phổ biến là dạy “Phonics”, tức thị tách âm các từ. Ví dụ học trò được học từ “cat” gồm có “c” và “at”, thì khi gặp các từ mới như “bat, hat, rat...” các em sẽ có thể đọc được dễ dàng. Như vậy, tôi không nghĩ rằng phương pháp dạy phân tách cấu trúc âm tiết là ít được sử dụng.
Với đích chính là dạy đọc, việc dạy đọc những từ lạ cùng cấu trúc âm (theo thí dụ trên, dạy “mat, pat, vat...) nhưng không đặt nặng việc hiểu nghĩa cũng đã được vận dụng theo cách dạy Phonics này. Như vậy, “chân không về nghĩa” không phải hoàn toàn vô lý, nếu xét ở giác độ dạy học trò nhìn mặt chữ và đọc được.
Học đánh vần không cần chú trọng giao tế
trước nhất là “nguyên tắc dạy học theo quan điểm giao thiệp” (Communicative language teaching - CLT). Đây là phương pháp dạy học ngoại ngữ, xuất hiện những năm 1980s, nhấn mạnh vai trò tương tác giữa học trò trong lớp trong việc giúp phát triển ngoại ngữ, cũng như giảm thiểu những giờ học nặng nề ngữ pháp, dịch thuật.
Tuy nhiên, văn cảnh dạy CLT cho đối tượng học viên bản ngữ và học viên ngoại ngữ là khác nhau. thí dụ khi chúng ta học tiếng Anh, không có nhiều thời kì nói tiếng Anh ngoài lớp học, thì việc chú trọng phát triển giao thiệp tiếng Anh trong lớp là cần thiết.
ngược lại, khi học sinh học tiếng Việt, ngoài lớp học các em có rất nhiều môi trường khác để giao tế: với bác mẹ, bạn bè, hàng xóm... Suy cho cùng, các em đã giao thiệp được sáu năm trước khi vào lớp 1, và tôi không nghĩ giờ học tiếng Việt lại cần nhiều giao dịch, bởi hai lý do. Thứ nhất, ngoài giờ tiếng Việt, còn rất nhiều giờ học khác, với nhiều hoạt động giảng dạy khác mà các em có thể giao dịch. Thứ hai, khi học sinh học đánh vần thì cũng khó mà nghĩ đến một hoạt động giao tiếp nào đi liền với đánh vần.
Và rõ ràng, CLT cũng chỉ là một phương pháp dạy học trong rất nhiều phương pháp, không phải là cái độc nhất vô nhị. Có rất nhiều phương pháp dạy học và chúng ta có thể lựa chọn một, hoặc dùng nhiều phương pháp đan xen, miễn sao đạt hiệu quả tối ưu.
Vì những lý do đó, tôi không nghĩ rằng học sinh Việt Nam học tiếng Việt phải thật sự chú trọng giao tế khi học đánh vần.
Tiếp theo là vấn đề “100% dân cư đi học thì nên dạy tiếng nói hàng ngày”. Rõ ràng, khi chúng ta có một lượng học trò lớn, khác nhau về nhiều mặt (văn hóa gia đình, nền móng, khả năng nhận thức...) thì việc chọn lựa ngôn ngữ hàng ngày làm nội dung giảng dạy là điều dễ hiểu. Đó là ngôn ngữ chung, gần gũi mà các em có thể tiếp cận dễ dàng. Việc tuyển lựa giảng dạy ngôn ngữ thuộc nhiều phong cách, đa dạng cũng có mặt tốt, tuy nhiên ở chương trình lớp 1, thì có lẽ chưa thật sự cần thiết.
“Tiếng nói là vật thật, chữ viết là vật thay thế”
Nếu so sánh hai cách mô tả, “thanh là cái bộc lộ khái niệm trong tư duy, còn chữ là chuyển đổi ngôn ngữ nói thành ký hiệu” và “tiếng nói là vật thật, chữ là vật thay thế”, thì tôi e rằng đối với học sinh lớp 1, với trình độ nhận thức còn lẫm chẫm, cách bộc lộ thứ hai dễ kết nạp hơn, dễ hiểu hơn. Tôi không cho đó là phức tạp hóa vấn đề, mà chỉ là đơn giản hóa để học trò dễ hiểu. Và nếu không chắc cách miêu tả nào dễ hiểu, chúng ta hoàn toàn có thể khảo sát trực tiếp học trò.
Và cũng có lẽ vì lý do đó mà trong những bài học đầu, Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục dùng các ô vuông, tròn, tam giác để thể hiện tiếng. Nếu không xét về nghĩa mà chỉ xét việc đếm số lượng âm thì những khối hình học đó là những vật thay thế hợp lý giúp trẻ hiểu được việc tách lời nói thành nhiều âm riêng lẻ.
Cần kiểm chứng kết quả học, đánh giá tỷ lệ tái mù
Về khẳng định “học trò theo chương trình Công nghệ giáo dục không thể bị tái mù” của GS Hồ Ngọc Đại hoàn toàn có thể kiểm chứng dựa vào khảo sát những em lớp cao, và so sánh tỷ lệ đó với tỷ lệ tái mù, ngồi nhầm lớp của các em theo chương trình phổ thông ngày nay. Và chúng ta có thể ủng hộ Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục nếu tỷ lệ tái mù thấp hơn, chứ không nhất thiết phải đợi mong con số “0% học trò tái mù”.
Nếu cùng thời lượng dạy, cùng số tiết, mà Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục có thể dạy cho học sinh đọc được nhiều từ hơn thì rõ ràng đó là ưu điểm. chẳng thể cho rằng công sức học sinh và cha bỏ ra nhiều là nhược điểm, bởi không có thành quả nào mà không đòi hỏi nhiều công sức. Tuy nhiên, nếu chỉ học một năm lớp 1 mà có thể đọc tốt, thay vì phải học đến lớp 2, lớp 3 mới đọc được tốt, thì tôi cho rằng trường hợp thứ hai sẽ bỏ nhiều công sức hơn cho việc đọc.
Và đương nhiên, chúng ta không thể đợi mong một học sinh lớp 1 đọc hiểu một tiểu thuyết. Ở độ tuổi ấy, trình độ nhận thức ấy, đọc được mặt chữ đã là một lợi thế. Các em còn rất nhiều năm để phát triển, để hiểu những gì đọc được bữa nay.
Vì những luận điểm trên đây, tôi không cho rằng cách tiếp cận của Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục là cực đoan. Thiết nghĩ không có sách nào hoàn hảo, nếu sách Công nghệ giáo dục biểu lộ được những ưu điểm của nó, kết quả kiểm chứng trong 40 năm qua là tốt, thì việc cấp phép cho bộ giáo trình này được dùng rộng rãi là điều nên làm.
Cuối tháng 8, video cô giáo hướng dẫn cách phát âm chữ cái c/k/q đều đọc là /cờ/ gây xôn xang dư luận vì khác phương pháp được dạy đại trà cho học trò. Cách đánh vần đó là theo sách Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục do GS Hồ Ngọc Đại làm chủ biên và Bộ Giáo dục cho phát hành.
chủ toạ Hội đồng quốc gia giám định cuốn Tiếng Việt Công nghệ giáo dục - PGS Bùi Mạnh Hùng cho biết, tài liệu gây tranh biện, tuy nhiên thực tiễn cho thấy phương pháp dạy đánh vần trong đó đã giúp học trò phát triển khá hiệu quả kỹ năng đọc thành tiếng và viết đúng chính tả. Đến nay gần 50 tỉnh, thành phố với khoảng 800.000 học trò lớp 1 (chiếm gần một nửa số học trò lớp 1) đang dùng cuốn sách này.
GS Hồ Ngọc Đại san sẻ sách được xây dựng trên nguyên tắc "muốn học cái gì thì phải tự tay làm cái đấy". Khi áp dụng, học trò sẽ là người làm việc, còn càn chỉ giao nhiệm vụ và quan sát, chỉ dẫn phương pháp. Ông tự tín sách tồn tại vĩnh viễn, nền giáo dục mình xây dựng là đúng đắn vì có nền tảng lý thuyết là triết học, tâm lý học, có công nghệ giáo dục tương trợ.
Nguyễn nổi danh
Đăng nhận xét