Chuỗi blockchain này xuất hiện trước Bitcoin đến 14 năm và thậm chí các tài liệu do những tác giả của nó viết còn trở thành nguồn cảm hứng cho Satoshi Nakamoto để biểu hiện nên Bitcoin.
- 31-08-2018 Tiền số trượt giá không phanh nhưng công việc liên hệ tới Blockchain lại đang...
- 18-07-2018 Bitcoin tăng vọt sau khi BlackRock tuyên bố nghiên cứu tiền mật mã và blockchain
- 17-07-2018 Viện CFA sẽ đưa tiền số và blockchain vào đề thi năm 2019
Blockchain – loại sổ cái kỹ thuật số được biết đến rộng rãi nhờ việc là nền móng cho hầu hết các đồng tiền mã hóa đình đám trên thế giới. Nhắc đến blockchain, người ta sẽ nghĩ ngay đến Bitcoin, đồng tiền mã hóa trước tiên tạo ra dựa trên công nghệ này.
Nhưng trên thực tiễn, loại blockchain lâu đời nhất có trước Bitcoin đến 13 năm và nó ẩn mình trong ấn bản in hàng tuần của một trong các tờ báo được phát hành rộng rãi nhất trên thế giới: tờ The New York Times.
Blockchain trước nhất trên thế giới
Về cơ bản, ngày nay blockchain được xem như một cơ sở dữ liệu do một màng lưới người dùng duy trì và bảo mật bằng mã hóa, với các "block" thông tin liên tiếp được tạo ra và kết nối với nhau theo dạng khối sau liên kết với khối trước. Blockchain được xem như công nghệ nền tảng để tạo nên các đồng bạc mã hóa cũng như các token kỹ thuật số, thí dụ như Bitcoin hay Ethereum.
Trên thực tế, blockchain – với nhân cách là một chuỗi liên tiếp dữ liệu mã hóa hàm băm – lần trước hết được phát minh bởi các nhà mật mã hóa Stuart Haber và Scott Stornetta vào năm 1991 và mục đích sử dụng của họ ít tham vọng hơn nhiều.
Thay vì vận dụng nó trong một cuốn sổ cái kỹ thuật số và ghi lại các giao tiếp tiền tệ, Haber và Stornetta xem công nghệ này như một cách để đánh dấu mốc thời gian (timestamp) cho các tài liệu kỹ thuật số để xác minh tính chuẩn xác của chúng.
Khi họ mô tả chi tiết công trình của mình trong một tài liệu đăng trên tùng san Mật mã (The Journal of Cryptology), họ cho biết, khả năng chứng nhận thời khắc một tài liệu được tạo ra hoặc chỉnh sửa có thể giải quyết vấn đề bản quyền sở hữu trí óc.
Việc đánh dấu mốc thời gian cho các tài liệu kỹ thuật số sẽ giải quyết hai vấn đề. đầu tiên, bản thân dữ liệu phải được đánh dấu mốc thời kì, " để nó chẳng thể thay đổi dù chỉ một bit trên tài liệu mà không bị nhận ra ." Thứ hai, việc thay đổi mốc thời kì gần như là không thể.
Giải pháp rõ ràng cho vấn đề này là sử dụng một dịch vụ timestamp khi nó lưu giữ tài liệu trong một " két an toàn kỹ thuật số ". Tuy nhiên, cách làm này có nhược điểm là nó sẽ xâm phạm đến tính tây riêng của người gửi tài liệu và tài liệu cũng có thể bị xâm phạm khi được dịch vụ này lưu trữ.
Giải pháp của Haber và Stornetta là cho tài liệu chạy qua một thuật toán mã hóa hàm băm, để tạo ra một ID độc nhất cho tài liệu đó. Ngay cả khi một bit trên tài liệu đổi thay thì nó cũng sẽ lại chạy qua thuật toán mã hóa một lần nữa, khi đó mã ID sẽ thay đổi hoàn toàn. Kết hợp ý tưởng này với ý tưởng về chữ ký số, chúng có thể được dùng để xác định tính danh duy nhất của người ký.
bởi vậy, thay vì phải gửi quờ tài liệu tới một dịch vụ timestamp, người dùng chỉ cần gửi giá trị mã hóa hàm băm. Dịch vụ timestamp đó sẽ ký xác nhận để đảm bảo nó nhận được giá trị này ở một thời điểm xác định và không bị xâm phạm.
New York Times trở nên nơi cất giấu một phần của blockchain
Dựa trên giải pháp của mình, Haber và Stornetta đã tạo ra dịch vụ timestamp của riêng họ, có tên gọi Surety, để biến dự kiến của mình thành hiện thực.
Sản phẩm chính của Surety có tên gọi "AbsoluteProof". Nó hoạt động như một con dấu bảo mật (secure seal) mã hóa trên các tài liệu kỹ thuật số, với cơ chế na ná như tài liệu nghiên cứu của Haber và Stornetta.
Mã băm được đăng công khai trên New York Times để tránh việc bị đổi thay và chỉnh sửa
Các khách hàng dùng phần mềm AbsoluteProof của Surety để tạo ra một bản băm cho tài liệu kỹ thuật số, và sau đó gửi tới máy chủ của Surety để nó tạo ra một con dấu bảo mật về mốc thời kì. Con dấu này là một mã định danh độc nhất vô nhị bảo mật, được trả lại cho chương trình để lưu trữ trên máy khách hàng.
Cùng lúc đó, một bản sao của con dấu đó và các con dấu khác do khách hàng đó tạo ra sẽ được gửi tới " cơ sở dữ liệu đăng ký phổ thông " (universal registry database) của AbsoluteProof, một chuỗi hàm băm (hash-chain) bao gồm ắt các con dấu Surety của khách hàng. Nó tạo nên một bản ghi chẳng thể đổi thay đối với toàn bộ các con dấu Surety từng được tạo ra, Vì vậy công ty hay bất kỳ bên thứ ba nào cũng không sửa đổi được con dấu.
Nhưng làm thế nào để chắc chắn các bản ghi nội bộ của Surety là hợp lệ?
Thay vì đăng tải tất cả mã băm của khách hàng lên một sổ cái kỹ thuật số công khai, Surety tạo ra một giá trị băm độc nhất vô nhị cho tuốt tuột các con dấu mới thêm vào cơ sở dữ liệu mỗi tuần và sau đó đăng tải giá trị băm này lên tờ New York Times. Giá trị đó được đặt trong một ô lăng xê nhỏ ở mục Timesclassified dưới tiêu đề "Notice & Lost and Found" và xuất hiện mỗi lần một tuần từ năm 1995.
Theo công ty, điều này làm cho " bất kỳ ai – bao gồm cả Surety – cũng không thể hủy bỏ mốc thời kì hoặc công nhận các bản sao điện tử mà không phải bản sao chép chuẩn xác của bản gốc ."
Cả Haber và Stornetta đã rời khỏi Surety từ hơn một thập kỷ trước để quay lại nghiên cứu, nhưng hiện tại cả hai đều đang làm việc như những nhà mật mã học cho các dự án blockchain khác. Vào năm 2008, khi Satoshi Nakamoto lần đầu trình bày về Bitcoin trong sách trắng, 3 trong số 8 tài liệu được trích dẫn do Haber và Stornetta viết.
Tham khảo Motherboard
Theo Nguyễn Hải
Trí Thức Trẻ
Đăng nhận xét