Để không thua kém Mỹ, Nga từng biến tàu bay chống chọi
Mig-19
thành hoả tiễn chiến lược
Một trong những trường hợp đặc biệt được ghi nhận trong cuộc chạy đua vũ trang giữa hai siêu cường Xô-Mỹ trong thời Chiến tranh Lạnh là việc Moscow dùng khung thân của tàu bay MiG-19 để phát triển hoả tiễn hành trình chiến lược trước hết Raduga Kh-20 (tên mã NATO: AS-3 Kangaroo) để đối trọng với hoả tiễn chiến lược Bell GAM-63 Rascal của Mỹ.
Sự kiện trên đã biểu lộ sự sáng tạo của Tổ hợp thiết kế MiG khi Kh-20 ra đời chỉ 1 năm sau GAM-63 (năm 1958) và bảo đảm sự thăng bằng chiến lược giữa hai bên.
Từ MiG-19 thành tên lửa Kh-20
Quá trình phát triển hoả tiễn chiến lược không đối đất trước tiên của Liên Xô đã được thông qua ngày 11-3-1954 với tên mã K-20 và được giao cho Tổ hợp thiết kế MiG, nơi vốn nức tiếng với các dòng phi cơ tiêm kích, phát triển.
Tuy nhiên, quá trình hoàn thiện và thí điểm nguyên mẫu hoả tiễn K-20 chỉ được đẩy mạnh từ năm 1957, thời điểm Mỹ giới thiệu tên lửa chiến lược Bell GAM-63 Rascal. Kết quả của quá trình này là sự ra mắt của Raduga Kh-20 chỉ một năm sau đó với nhiều điểm đặc biệt khí động học đặc trưng của phi cơ tranh đấu MiG-19.
Điều này hoàn toàn dễ hiểu vì Tổ hợp thiết kế MiG là đơn vị rất có kinh nghiệm trong việc chế tác phi cơ chống chọi. Chương trình phát triển K-20 được chỉ đạo trực tiếp từ Tổng công trình sư Mikhail I. Gurevich.
Quá trình thiết kế và thí nghiệm đã chỉ ra rằng việc tận dụng và hoán cải thiết kế gốc của tàu bay đương đầu MiG-19 thành tên lửa hành trình mới dễ dàng và thuận lợi hơn nhiều so với việc phát triển một thiết kế hoàn toàn mới mang nhiều rủi do về công nghệ. Trong khi đó, thiết kế K-20 được coi là vũ khí chiến lược của Liên Xô thời điểm đó.
Chính vì lý do trên, tên lửa Kh-20 thực tại là biến thể không người lái của máy bay MiG-19 với hệ thống dẫn đường tự động hóa kết hợp hiệu chỉnh của hoa tiêu trên tàu bay mẹ.
hoả tiễn Kh-20M rời tàu bay mẹ
Theo các thông tin được giải mật, trong năm 1955, Liên Xô đã thầm lặng hoán cải 2 tàu bay ném bom Tu-95 thành biến thể Tu-95K với kết cấu có thể mang phóng tên lửa chiến lược.
Trong thời khắc này, Tổ hợp MiG đã gấp rút hoán cải và hoàn thiện nguyên mẫu tên lửa SM-20/I và SM-20/II để thể nghiệm khí động học; SM-K/I và SM-K/II để thể nghiệm hệ thống dẫn đường và động cơ. hết thảy chúng đều được chế tạo trên cơ sở khung thân máy bay MiG-19.
Trong lần phóng thể nghiệm trước tiên năm 1957, nguyên mẫu SM-20/I đã gặp vấn đề khi phóng từ phi cơ Tu-95K do động cơ phản lực Lyul’ka AL-7F không thể khởi động ở độ cao lớn do nhiệt độ xuống thấp.
Sau đó, vấn đề kỹ thuật này đã được giải quyết và vụ phóng thử hoả tiễn Kh-20 đã thành công vào ngày 17-3-1958, dù tầm bắn và độ chính xác của tên lửa vẫn cần được hiệu chỉnh.
Các vấn đề kỹ thuật của Kh-20 tiếp được hoàn thiện để trang bị trên phiên bản Kh-20M trong năm 1959 với động cơ sửa đổi và đầu đạn nhiệt hạch được thiết kế lại phù hợp trang bị trên tên lửa. tên lửa Kh-20M chính thức được sinh sản hàng loạt từ năm 1960.
Ban đầu, Liên Xô dự kiến trang bị cho mỗi máy bay Tu-95K 2 đạn hoả tiễn Kh-20M, nhưng sau đó con số này được rút xuống còn 1 đạn/phi cơ.
Khả năng chiến đấu của Kh-20 được coi là đột phá ở thời điểm xuất hiện. hoả tiễn dùng nguyên tắc dẫn đường bán chủ động. Ở pha phóng đầu tiên, hoả tiễn rời tàu bay mẹ và leo lên độ cao tới 20 km.
dùng thế năng ở độ cao lớn, hoả tiễn được cập nhật vị trí mục tiêu từ máy bay mẹ và tiến công nhào với vận tốc tới Mach 2. Với đầu đạn nhiệt hạch có sức công phá tới 3 Megaton và tầm bắn 800 km, Kh-20 được kỳ vọng là khí giới tiến công phủ đầu của lực lượng chiến lược Liên Xô.
Không đáp ứng được kỳ vọng và sớm được thay thế
Trong quá trình dùng, những đặc điểm hạn chế của Kh-20 vốn được thiết kế dựa trên những sản phẩm có sẵn và những giới hạn công nghệ thời điểm những năm 1950 đã được trình bày. Kh-20 không thể đáp ứng là vũ khí tấn công phủ đầu của Liên Xô do thời gian lắp đặt đạn hoả tiễn lên máy bay Tu-95K quá lâu, cần tới 22 tiếng.
Mặt khác, đầu đạn nhiệt hạch đời đầu tiên của Liên Xô cần điều kiện niêm cất đặc biệt và khi trên khai chống chọi trên hoả tiễn Kh-20 tỏ ra không phù hợp.
Chính vì những vấn đề trên, Liên Xô đã quyết định loại dòng hoả tiễn Kh-20 khỏi nhiệm vụ chiến lược và sử dụng chúng ở nhiệm vụ tiến công các mục tiêu còn lại sau đòn tiến công phủ đầu, trong đó có các nhóm hàng không mẫu hạm của đối phương.
Mặt cắt kỹ thuật của tên lửa Kh-20M
Ở nhiệm vụ mới, trong những năm 1960, hoả tiễn Kh-20 được nâng cấp sâu giúp giảm thời kì khai triển xuống còn 4 tiếng và độ tin tức của tên lửa được cải thiện đáng kể.
ngoại giả, khi hạ cấp nhiệm vụ, Kh-20 không còn là trang bị chính của máy bay Tu-95K và được tái trang bị trên tàu bay ném bom M-4. Tuy nhiên, do kích tấc kềnh càng và trọng lượng hoả tiễn tới 15 tấn, việc tái trang bị đã không thành công.
Một điểm yếu nữa là hệ thống dẫn đường của tên lửa Kh-20/Kh-20M quá đơn giản, phụ thuộc nhiều vào kênh dẫn thủ công nên dễ bị gây nhiễu. Vấn đề này càng bộc lộ rõ trong những năm 1970.
Tới cuối thập kỷ 1970, Liên Xô nhận thấy Kh-20 đã không còn đủ khả năng xuyên thủng lá chắn tên lửa đương đại của đối phương và đã phát triển phương án thay thế. Đây chính là tiền đề để thế hệ tên lửa hành trình mới Kh-22 (tên NATO: AS-4 Kitchen) ra mắt và là khí giới tiến công chính trên máy bay ném bom siêu thanh Tu-22M.
Dù không phải là thiết kế thành công hoàn hảo, nhưng Kh-20 đã đánh dấu bước tiến quan yếu của Liên Xô trong việc phát triển tên lửa không đối đất phóng ngoài vòng phòng không và công nghệ này còn được ứng dụng tới tận hiện tại.
Ngoài ra, một điểm đặc biệt nữa là Kh-20 có thể coi là tiền thân của máy bay không người lái khi nó mang đầy đủ thiết kế của MiG-19 chỉ bỏ khoang điều khiển và phi công.
Tiêm kích MiG-19 phóng hoả tiễn tiến công đích
Đăng nhận xét